Theo một thông tin về kết quả thể nghiệm lâm sàng: dùng hồng bì để điều trị lỵ amíp và lỵ trực trùng (kết hợp với khổ luyện tử, hòe hoa) cho kết quả tốt hơn thuốc tây ganidan và tetracyclin
Hoặc dùng 20g quả khô (hay 50g quả tươi) sắc nước uống vào lúc đói.Quất hồng bì là loài cây “thực dược lưỡng dụng” – vừa làm thực phẩm vừa làm thuốc. Toàn bộ các bộ phận của cây, đều có thể dùng làm thuốc chữa bệnh. + Quả (hoàng bì quả) có vị ngọt và chua, tính bình hơi ấm. Liều dùng hàng ngày: hạt 6-10g; rễ 10-20g. Tên khoa học là Clausena lansium (Lour. Hạt còn chữa rắn cắn. Quả màu vàng, hình cầu, đường kính 15mm, có lông, 1-2 ngăn, chứa một hạt to; thịt quả ngọt thơm.
- Chữa rắn cắn: Dùng hạt hồng bì nhai nát, nuốt nước, bã đắp lên nơi rắn cắn.
+ Hạt (hoàng bì quả hạch) và rễ (hoàng bì căn) có vị đắng, cay, the, tính ấm. Quất hồng bì là loài cây “thực dược lưỡng dụng” – vừa làm thực phẩm vừa làm thuốc. - Chữa ho gà: Dùng quả quất hồng bì, vỏ rễ dâu, cam thảo, mỗi thứ 10-12g, sắc nước uống trong ngày.
Theo Đông y: + Lá (hoàng bì diệp) có vị đắng và cay, tính bình hơi ấm; Có tác dụng giải cảm, hạ sốt, long đờm và giảm ho. Hoa trắng mọc thành chùy ở ngọn, chùy thưa hoa, dài 25-50cm. - Chữa sán khí (sa đì): Dùng vỏ rễ quất hồng bì 60g, tiểu tã lót 15g, sắc lấy nước, thêm chút rượu trắng vào uống ấm, ngày 1-2 lần.
Về mặt thực vật, hồng bì là một loại cây gỗ, cao 3-5m, cành non hơi ráp, sần sùi do có nhiều hạch (tuyến). Dùng chữa cảm mạo, sốt, sốt rét, ho. Liều dùng hàng ngày 20-40g. - Chữa đau dạ dày, đau bụng co thắt: Dùng hạt hồng bì, phơi hay sấy khô = sao thơm, tán mịn ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 6-10g; chiêu bằng nước hoặc rượu nhạt.
Lá thường dùng tươi hoặc phơi khô, dùng làm thuốc với tên “hoàng bì diệp”; Quả có thể dùng tươi hoặc hái về, để nguyên hay bổ dọc, phơi nắng hay sấy khô, dùng làm thuốc với tên “hoàng bì quả”; hạt dùng làm thuốc với tên “hoàng bì quả hạch”; rễ gọi là “ hoàng bì căn”; vỏ rễ gọi là “hoàng bì căn bì”,
Hoặc dùng “Hoàng bì long nhãn diệp thang”: Lá quất hồng bì, lá nhãn, mỗi thứ 30g, dã cúc hoa 15g, sắc nước uống, mỗi tuần 3 lần. Dùng chữa tiêu hóa kém, buồn nôn, ho, ho gà. Trong điều kiện gia đình, có thể dùng quất hồng bì để chữa trị một số chứng bệnh theo những phương pháp như sau: - dự phòng cảm cúm: (1) Dùng lá hồng bì khô 6-10g (hoặc 20-30g tươi), sắc uống, liên tục 3-6 ngày.
Lá kép mọc so le, gồm 5-13 lá chét, hình trái xoan, lá chét cuối hình trứng; nguyên hay hơi khía tai bèo, đầu nhọn, phía cuống lá hơi lệch; có nhiều điểm tuyến chứa dầu.
Cây còn có tên là “quất quất hồng bì”, “hoàng bì” , “kim đạn tử”, “do bì”, “do mai”,. Liều dùng hàng ngày 6-10g quả khô. - Chữa ho do ngoại cảm (ho gió): Dùng vài quả hồng bì (khoảng 20-30g), bổ đôi, hấp với đường, chia ra ăn trong ngày. Thuộc họ Cam quít (Rutaceae). - Bí tiểu tiện: Dùng lá hồng bì 4-5 lá, rượu 30-40ml, thêm nước sắc uống. Kết quả nghiên cứu đương đại cho thấy: Lá quất hồng bì có tác dụng bảo vệ tế bào gan; hạ đường huyết và lipid huyết; kìm hãm sự phát triển của một vài chủng ký sinh trùng sốt rét, tụ cầu vàng và một số vi khuẩn gây bệnh đường ruột.
- Chữa đau thắt dưới tim hoặc giun đũa chòi lên: Dùng quả hồng bì tươi, nhai và nuốt cả vỏ. Mùa hoa: tháng 4; mùa quả: 6-10. ) Skeels [Clausena wampi (Blanco) Oliv. + Đáp : hồng bì là loài cây được trồng ở nhiều tỉnh miền Bắc nước ta để lấy quả ăn. ]. Dân gian thường dùng để nấu nước gội đầu, cho sạch gầu và mượt tóc.
Có tác dụng chống ho, long đờm, kích thích tiêu hóa, cầm nôn. Có tác dụng giảm đau, thúc đẩy tiêu hóa, dùng chữa đau bao tử, đau vùng thượng vị, đau bụng co thắt. Rễ còn dùng chữa cảm mạo, thấp khớp, dùng cho đàn bà sau khi đẻ.