Điều đặc biệt hơn là lão thường bốc thuốc với giá "rẻ như cho" thậm chí với những trường hợp bệnh nhân nghèo túng, lão sẽ "biếu không". Ngoài viết thơ, lão còn viết truyện ngắn. Kỷ niệm về những bệnh nhân lão nhớ rất nhiều. Để đời đỡ phải bất bình cay đắng". Có những bà cụ được lão chữa bệnh, sau khi khỏi đã cuốc bộ cả ngày trời mang theo chục trứng gà đến để tạ ơn bác sĩ.
Năm 2000, lão đoạt giải khuyến khích với truyện ngắn “Bến Lỡ”, do Hội văn học Nghệ thuật Hà Nam trao tặng với bút danh Từ Thiết Linh. Chẳng cửa hàng mặt đường lớn, chẳng biển hiệu khoa trương, hàng ngày lão vẫn kê đơn bốc thuốc ngay trong căn nhà nhỏ nhắn nằm lọt thỏm trong ngõ hẻm ở làng Đại Hoàng. Không còn đôi tay, lão phải thôi việc tại cơ quan và trở về quê.
Vậy là từ một trưởng phòng chứa chan mai sau, lão trở thành một người tàn phế. Thế cuộc chìm nổi Nhắc đến làng Đại Hoàng hẳn chúng ta sẽ nhớ đến truyện ngắn của nhà văn Nam Cao với những Chí Phèo, Thị Nở, Lão Hạc, Bá Kiến… Nhưng tôi về mảnh đất danh tiếng này không phải để tìm về nơi của những trữ trong văn học mà để gặp một ông lão mà người ta vẫn gọi là "kỳ nhân".
Con đường thành nghiệp rộng thênh thang trước mắt khi sau dự án này kiên cố lão sẽ có một vị trí lãnh đạo tương đối. Là một người có nghị lực và có chiều sâu về tâm hồn, lão đã chuyển những suy nghĩ của mình thành những vẫn thơ với ngôn từ mộc mạc. Việc có quá đông người đến chữa bệnh cũng khiến lão khá vất vả. Những bài thơ, truyện ngắn, bút ký đều là những câu chuyện từ chính cuộc đời lão.
Thơ của lão rất đơn giản nhưng mang đậm sức mạnh ý chí. Rồi những người láng giềng hàng xóm mỗi khi có ai bị mắc những chứng bệnh thông thường đều sang lão điều trị. Có những ngày lão phát tới vài nghìn liều thuốc cảm cho bệnh nhân ở khắp nơi. Với lão, bốc thuốc là để cứu người chứ không phải là để kiếm kế sinh nhai… Vẻ ngoài của "kỳ nhân" mang đặc sệt phong độ của những người dân cày đồng bằng chiêm trũng.
Sự nhụt chí sẽ giết chết cuộc đời lão. Hoàn tất việc học tập, lão nhận công tác tại Trường Trung cấp Xây dựng Nam Định. Hơn 20 năm trôi qua, tiếng thơm của vị bác sĩ cụt hai tay đã lan rộng hơn đi khắp mọi nơi. Nói chuyện với lão rất dễ chịu vì người Đại Hoàng bấy lâu vẫn nức danh là mến khách. Tên thật của lão là Trần Đức Mô, người làng Đại Hoàng (Lý Nhân-Hà Nam), một người mà dân chúng sống trong vùng vẫn dành những lời truyền tụng là vị bác sĩ có tấm lòng từ thiện.
Tên tuổi của lão càng ngày càng bay xa qua lời truyền Myệng của nhân gian. Có rất nhiều dự định, ao ước sẽ tiến thân trên con đường công danh nhưng lão đã từ sờ soạng để gia nhập quân ngũ. Thời gian trôi qua, bệnh nhân ở khắp nơi tìm đến nhà lão ngày càng đông hơn. Thời gian cứ thế trôi đi và nhà thuốc của lão càng ngày càng có nhiều người tìm đến.
Không còn hai bàn tay, lão đã cầm bút bằng cách chụm hai khuỷu tay của mình lại để viết. Chiến tranh chấm dứt, lão tiếp chuyện đi học. Lão viết không phải bởi muốn thành nhà văn, thi sĩ.
Càng có nhiều người đến chữa bệnh, lão càng cảm thấy cuộc đời của mình có ý nghĩa. Trong lúc đang chỉ đạo xây dựng tại công trường, lão đã bị điện giật bởi đường dây cao áp.
Tìm gặp "kỳ nhân" không khó vì ngày nào lão cũng ở nhà đón bệnh nhân đến để chữa trị.
Càng đọc những cuốn sách về y học lão càng mê. Kể về cuộc đời của mình, lão chỉ nói một câu ngắn gọn: "Sinh ra trên đời là để sống chứ không phải tồn tại".
Chuyện những món quà là nải chuối, rổ khoai lang, chục cân gạo nếp của bệnh nhân mang đến nhà thầy thuốc để trả ơn diễn ra thường xuyên. Lão rất cảm động vì biết rằng mình đã làm được một việc gì đó hữu ích cho người khác. Lão sống trong bế tắc, khốn cùng khi chưa thể thích nghi với cuộc sống đã mất đi đôi tay. Những tưởng cuộc đời của mình đã đi vào ngõ cụt khi bỗng dưng trở thành tàn tật, nhưng ý chí lạc quan, sự tự tín vào bản thân đã giúp ông lão vượt qua sóng gió để tìm cuộc sống mới tươi đẹp cho bản thân mình.
Trong đầu lão suy nghĩ rằng, chữa bệnh là để cứu người chứ không phải là để làm giàu. Càng vui hơn khi biết mình đã giúp cuộc sống của nhiều người trở nên tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, cũng đúng lúc con đường sự nghiệp bắt đầu thì lão gặp tai họa. Đơn giản chỉ là lão muốn bộc lộ những suy nghĩ của mình một cách tế nhị.
Chăm cho con lớn con xinh. Lão thấy mình trở nên vô dụng và là gánh nặng của những người trong gia đình. Tiếng lành đồn xa, người dân trong xã rồi cả huyện đến tìm lão để chữa bệnh. Những đầu sách của lão đã tạo được tiếng vang nhất mực trong giới văn học nghệ thuật tỉnh Hà Nam. Hồi trẻ, lão thuộc hàng những người sáng ý, sáng ý được học hành đầy đủ. Nội dung truyện tuy đơn giản nhưng được đúc rút từ kinh nghiệm sống, những câu chuyện có thật mà chính bản thân tác giả đã sang.
Không chỉ là người dân ở Lý Nhân lão sống mà cả người ở những huyện khác ở tỉnh Hà Nam cũng tìm đến. Những câu thơ trước tiên, lão viết rằng "Sống để dạy dỗ các con. Trong suy nghĩ của lão làm thơ phải theo cảm xúc, không thể nhờ ai chép hộ mình được nên phải luyện viết, lúc nào có hứng là lấy giấy bút ra ghi chép. Ban sơ là những nét chữ nguếch ngoác nhưng lão thế tập luyện để viết thật thành thạo.
Cũng đúng thật, vì giả dụ dạo lão bị tai nạn và phải cắt đi đôi tay của mình, giả dụ lão không nghĩ vậy thì chắc hiện, cái tên Trần Đức Mô sẽ không được gắn thêm hai từ "kỳ nhân". Thấy hiệu quả, mỗi lần những người thân trong nhà bị bệnh, lão đều tự tay bốc thuốc chữa trị.
Nếu như tìm đến cái chết, vợ lão sẽ mất chồng, con lão sẽ mất cha, gia đình sẽ không còn điểm tựa… Lòng quyết tâm sống trở lại, lão muốn sống để thực hành nghĩa vụ của một người đàn ông trong gia đình. Có nhẽ đó chính là động lực sống của một con người giàu nghị lực, cuộc đời đã sang nhiều giông bão. Cũng thật lạ thay vì những người đã từng được lão chữa bệnh đều nói rằng, bán thuốc kiểu như lão chẳng khác nào cho không… Nhiều người rất hàm ơn lão, đặc biệt là những bệnh nhân nghèo.
Người đến chữa bệnh rất nhiều, chịu ơn không biết bao nhiêu, nhưng điều quan yếu nhất là công việc bốc thuốc đã tạo ra cảm hứng sống và làm việc cho lão.
Ông Trần Đức Mô làm thơ. Lão cảm thấy thế cuộc mình đã đi vào ngõ cụt khi bản thân trở thành tàn phế. Lão say mê viết vì những vần thơ đã chuyển tải được suy nghĩ, khát vọng. Làm việc ở đây một thời kì, lão lại chuyển sang Công ty Công nghệ thực phẩm Hà Nam Ninh.
Lão nghĩ rằng, sẽ chẳng mang ích gì giả dụ cứ bo bo một suy nghĩ nản, tuyệt vọng. Lão muốn chấm dứt cuộc sống! Tuy nhiên, trong một lần can ngăn đám trẻ trong làng ăn hiếp con mình, lão đã hiểu được mình sống trên đời vẫn còn ý nghĩa.
Đến năm 2009, lão lại cho ra tập thơ “Hương đất” với những tác phẩm nói về tình quê hương, tự nhiên, con người… Với lão, cuộc sống này không đơn giản chỉ tồn tại cho riêng bản thân mình mà còn cho rất nhiều người khác. Rồi người ở những tỉnh lân cận như Nam Định, thăng bình, Hưng Yên… cũng đến tìm lão để chữa bệnh.
Được sự tín nhiệm của lãnh đạo, lão được giao nghĩa vụ quản lý công trình xây dựng trụ sở làm việc của công ty.
Để mà quy tụ săn sóc gia đình. Lão được đánh giá là một viên chức rất có năng lực và chóng vánh được nhận chức trưởng phòng.
Lời lẽ của những bài thơ đó chẳng cần xa xôi, hoa lá, chỉ thuần tuý là chuyển tải cảm xúc của một con người giàu cảm xúc. Lão tự mình tìm thật nhiều sách về đông y để tìm hiểu. Điều đặc biệt hơn, lão còn là một thi sĩ, nhà văn. Để có được số thuốc đó, sờ soạng các thành viên trong gia đình đều phải tranh thủ thức trắng đêm nặn từng viên thuốc, gói từng thang dược liệu để sáng hôm sau cứ thế phát cho bệnh nhân.
Rồi lão lọ mọ cuốc bộ đến những hiệu thuốc ở trong huyện, tỉnh để tham khảo những bài thuốc đã đọc từ sách vở. Vậy là lão đã đứng dậy từ cơ thể không đầy đủ của mình để tìm một cuộc sống mới… Kỳ nhân làng Đại Hoàng Những ngày ở nhà dưỡng bệnh, lão được người em trai làm thầy thuốc gửi cho những cuốn sách về đông y để đọc cho… đỡ buồn.
Con người lão toát ra sự can trường, nghị lực và đôn hậu. Để cứu tính mạng, bệnh viện đã phải cắt đi đôi tay của lão. Khi đã nắm được khá nhiều kiến thức về y học, lão bắt đầu bốc thuốc thử. Cũng năm đó, Từ Thiết Linh với tập truyện ký "Tôi là công nhân" đã đoạt giải nhất văn xuôi trong cuộc thi sáng tác văn chương về đề tài công nhân, do Liên đoàn Lao động và Hội văn chương nghệ thuật Hà Nam tổ chức năm 1999 - 2000.
Những bài thuốc đầu tiên lão tự bốc cho chính mình.